Từ những chuyển biến trong vĩ mô đến cơ hội cho doanh nghiệp trong các lĩnh vực xuất khẩu, BĐS khu công nghiệp, FMCG…

Từ những chuyển biến trong tình hình kinh tế vĩ mô…

Theo báo cáo của S&P Global, chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất của Việt Nam đạt kết quả 50,4 trong tháng 2, tăng nhẹ so với 50,3 điểm của tháng 1 và nằm trên ngưỡng 50 điểm tháng thứ hai liên tiếp. Cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tăng tháng thứ hai liên tiếp.

Báo cáo của Ngân hàng UOB đánh giá, những dữ liệu này cho thấy động lực chung trong lĩnh vực sản xuất và thương mại bên ngoài đang có những dấu hiệu tích cực. UOB cũng kỳ vọng tốc độ này sẽ duy trì, đặc biệt trong nửa cuối năm 2024 khi sự phục hồi trong lĩnh vực bán dẫn vững chắc hơn và các ngân hàng trung ương toàn cầu bắt đầu vận hành chính sách lãi suất phù hợp hơn.

UOB dự báo tăng trưởng của Việt Nam ở mức 6% cho năm 2024, nằm trong mục tiêu chính thức là 6-6,5%. Trong quý 1/2024, UOB kỳ vọng tốc độ tăng trưởng GDP sẽ ở mức 5,5% so với cùng kỳ do ảnh hưởng của kỳ nghỉ tết Nguyên đán. UOB cũng dự báo, áp lực lạm phát sẽ tiếp tục tăng, với dự báo CPI toàn phần sẽ tăng lên mức 3,8% vào năm 2024, từ mức 3,25% vào năm 2023.

 

Ngoài ra, UOB cũng dự báo VND có khả năng phục hồi nhẹ. Tỷ giá USD/VND giao dịch lên mức cao mới 24.700 vào cuối tháng 2 cùng với sự mạnh lên của USD so với các đồng tiền châu Á. Bất chấp sự suy yếu trong ngắn hạn của đồng VND, kỳ vọng về tốc độ tăng trưởng GDP mạnh hơn ở Việt và đà phục hồi trong lĩnh vực sản xuất và ngoại thương là những yếu tố tích cực có thể giúp ổn định đồng VND. Bên cạnh đó, sự phục hồi tiếp theo của CNY – mà VND thường có cùng xu hướng – cùng với sự suy yếu của USD trước đợt cắt giảm lãi suất của Fed vào tháng 6 sẽ mang lại sự phục hồi nhẹ cho VND.

… Đến cơ hội cho các doanh nghiệp trong năm 2024

Dự báo về từng ngành, theo Vndirect Research, đối với các doanh nghiệp xuất khẩu , kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp này có thể phục hồi trong những quý tiếp theo. Nguyên nhân vì tồn kho hàng nội thất, đồ may mặc và thực phẩm giảm dần sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy nhập khẩu tại các thị trường chính vào mùa lễ hội sẽ thúc đẩy đơn đặt hàng mới từ nửa cuối năm 2024.

Chỉ số niềm tin người tiêu dùng tại Mỹ và EU tăng trở lại trong tháng 12/2023 từ mức giảm trong tháng 11/2023 , điều này cho thấy kỳ vọng của người dân về tình hình tài chính trong thời gian tới trở nên lạc quan hơn, nhờ đó có thể thúc đẩy tiêu dùng trong 2024.

Đối với ngành cảng và vận tải biển, hoạt động thương mại phục hồi có thể sẽ hỗ trợ cho khả năng phục hồi của ngành. Vào ngày 25/12, Bộ GTVT đã ban hành Thông tư 39/2023/TT-BGTVT về việc tăng giá sàn xếp dỡ container. Theo Vndirect Research, thông tư này sẽ góp phần cải thiện biên lợi nhuận gộp của các doanh nghiệp khai thác cảng container. Bên cạnh đó, tình hình gián đoạn tại Biển Đỏ khiến giá cước tăng trong ngắn hạn.

Đối với các doanh nghiệp bất động sản nhà ở , giai đoạn khó khăn nhất đã qua và sẽ từng bước tiến lên từ nửa cuối năm 2024. Theo Vndirect, những nút thắt của bất động sản nhà ở đang dần được nới lỏng và đã xuất hiện những kết quả tích cực nhất định.

Mặt bằng lãi suất cho vay giảm đã trở nên dễ tiếp cận hơn đối với các chủ đầu tư, và được kỳ vọng sẽ hỗ trợ nhu cầu mua nhà tích cực hơn trong thời gian tới. Các doanh nghiệp đã tiến hành cơ cấu lại nợ để cải thiện tình hình tài chính. Thách thức về nguồn vốn đã dịu lại.

Đối với bất động sản khu công nghiệp , thị trường KCN miền Bắc được dự đoán tươi sáng hơn với dự báo giai đoạn 2024-2027 sẽ tiếp tục bùng nổ nguồn cung mới. Nhiều tập đoàn công nghệ lớn đang có kế hoạch cụ thể để chuyển dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam, với vị trí tiếp giáp Trung Quốc, thị trường miền Bắc sẽ trở thành điểm đến phù hợp, nắm bắt xu hướng chuyển dịch điện tử này.

Đối với ngành thép , nhu cầu thép sẽ tăng trưởng trở lại nhờ thị trường bất động sản trong nước được kỳ vọng tiếp tục ấm lên trong giai đoạn 2024-2025. Giá thép sẽ có chuyển biến tích cực hơn vào năm 2024, do mức tồn kho đã giảm xuống mức kỷ lục và thị trường BĐS Trung Quốc được dự báo phục hồi nhẹ từ nền thấp của năm 2023 nhờ các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ Trung Quốc. Giá đầu vào ổn định hơn.

Đối với ngành tiêu dùng , chỉ số niềm tin người tiêu dùng có tín hiệu phục hồi. Lượng khách du lịch tăng trở lại sẽ thúc đẩy các hoạt động lưu trú, ăn uống và giải trí, giúp nhu cầu tiêu dùng cải thiện đáng kể vào năm 2024. Các công ty hàng tiêu dùng thiết yếu sẽ được hưởng lợi đầu tiên khi dấu hiệu về nhu cầu phục hồi rõ ràng hơn do người tiêu dùng có xu hướng ưu tiên các sản phẩm thuộc ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG).

Đối với doanh nghiệp dầu khí , Vndirect Research kỳ vọng nguồn cung thắt chặt sẽ hỗ trợ giá dầu với dự báo giá dầu Brent đạt mức trung bình 85 USD/thùng trong năm 2024. Đầu tư vào lĩnh vực thượng nguồn dự kiến sẽ tiếp tục đà tăng trong một vài năm tới, là tín hiệu tích cực cho các đơn vị cung cấp dịch vụ thượng nguồn Dầu khí. Triển vọng thị trường vận tải Dầu khí dự báo sẽ duy trì ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho các đơn vị vận tải trong một vài năm tới.

Nguồn: https://cafef.vn/tu-nhung-chuyen-bien-trong-vi-mo-den-co-hoi-cho-doanh-nghiep-trong-cac-linh-vuc-xuat-khau-bds-khu-cong-nghiep-fmcg-188240318085801448.chn

Nâng cao năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Summary

International economic integration not only brings opportunities but also creates many challenges that Vietnam’s commercial banking system face, such as: ensuring financial stability, improving the competitiveness against the foreign banks, improving governance capacity and sustainable development… The article analyzes the overall picture of the competitiveness and stability of Vietnam’s commercial banking system in the global integration process, thereby proposing practical solutions, enhancing the position of Vietnam’s commercial banking system in the international market.

Keywords: economic integration, competitiveness, commercial banks, stability

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hội nhập kinh tế quốc tế theo xu thế tự do hóa tài chính được coi là hướng đi thích hợp trong bối cảnh hiện nay và được nhiều quốc gia lựa chọn. Việt Nam trong xu thế chung, đã không ngừng thúc đẩy việc tiến hành tự do hóa tài chính thông qua mở rộng quy mô và thị trường hợp tác thương mại quốc tế. Tuy nhiên, việc tham gia hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế cùng với những cơ hội được mở ra, thì cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho lĩnh vực tài chính ngân hàng. Áp lực cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM trong nước và ngân hàng quốc tế ngày một gia tăng. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến hết năm 2022, tại Việt Nam có 12 ngân hàng 100% vốn nước ngoài với tổng tài sản đạt 2.071.475 tỷ đồng, tăng 6,34% so với năm 2020. Theo đó, các NHTM trong nước phải đối mặt với nguy cơ sáp nhập hoặc bị mua lại từ phía các ngân hàng nước ngoài nếu kinh doanh không hiệu quả. Viễn cảnh này cũng đã từng xảy ra đối với các doanh nghiệp niêm yết trong lĩnh vực sản xuất và thương mại. Điều này vô hình chung tạo ra sức ép đối với các NHTM Việt Nam và buộc các ngân hàng này nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Do vậy, đánh giá toàn cảnh về bức tranh năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay vừa mang tính cấp bách và vừa có giá trị thực tiễn cao.

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH NỘI TẠI CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP

Năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định nội tại của hệ thống NHTM Việt Nam được biểu hiện thông qua một số chỉ tiêu tài chính và phi tài chính như sau:

Tỷ lệ an toàn vốn và khả năng thanh khoản

Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đồng nghĩa với việc xóa bỏ những ưu đãi tiến tới cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng trên bình diện quốc tế. Năng lực tài chính là yếu tố cực kỳ quan trọng đánh giá mức độ tự chủ và khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Năng lực tài chính của ngân hàng còn là căn cứ để xác định các tỷ lệ an toàn. Với ý nghĩa đó, để tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, vốn của các ngân hàng nội địa phải đảm bảo tỷ lệ an toàn cao hơn tỷ lệ tối thiểu. Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê của NHNN đến cuối năm 2022, tổng số vốn tự có của các NHTM áp dụng Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, ngày 30/12/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi tắt là Thông tư 41) là 422.786 tỷ đồng, tăng 15,23% so với đầu năm. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) đạt ở mức 9,04%. Trong khi đó, tổng số vốn tự có của các NHTM cổ phần đã áp dụng Thông tư 41 là 722.854 tỷ đồng, tăng 18,52% so với đầu năm (Bảng 1). Tỷ lệ an toàn vốn của khối ngân hàng này cao hơn khá nhiều so với các NHTM nhà nước, đạt 12,29%. Theo đó, các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng có tỷ lệ an toàn vốn với con số khá ấn tượng, đạt 18,61% tính theo Thông tư 41 vào cuối năm 2022.

Bảng 1: Vốn tự có và tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống NHTM tại Việt Nam

theo Thông tư 41/2016/TT- NHNN

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê của NHNN (2022) 

Nhìn chung, hệ số CAR được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây và dần tiệm cận với những tiêu chuẩn của Basel III, tạo ra tấm đệm vững chắc cho việc tăng trưởng tín dụng trong tương lai. Trong hệ thống NHTM Việt Nam, hiện có hơn 20 ngân hàng đã áp dụng tiêu chuẩn Basel II, trong đó có 6 ngân hàng đã hoàn thành cả 3 trụ cột. Một số ít ngân hàng đã bắt đầu chuyển sang đáp ứng những tiêu chuẩn của Basel III. Những động thái này sẽ giúp các ngân hàng quản trị rủi ro và an toàn vốn hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quốc gia trong khu vực ASEAN thì tỷ lệ CAR trung bình của hệ thống NHTM Việt Nam thấp hơn nhiều so với ngân hàng trong khu vực. Tỷ lệ này bình quân của Indonesia là 22,6%, của Philippines là 17,2%, của Singapore là 17,1%, Thái Lan 19,6%, Malaysia 18,5%. Thêm vào đó, tỷ lệ CAR của các ngân hàng quốc doanh chỉ cao hơn mức tối thiểu một chút và thấp hơn so với các ngân hàng tư nhân và ngân hàng nước ngoài.

Bảng 2: So sánh hệ số CAR của Việt Nam với một số quốc gia trong khu vực


Tỷ lệ an toàn vốn CAR của các ngân hàng Việt Nam được cải thiện nhưng vẫn chậm và ở mức thấp so với các ngân hàng trong khu vực. Điều này tạo ra rào cản đảm bảo mức độ ổn định tài chính và gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường của các NHTM trong nước. Trong khi đó, các NHTM trong khu vực đã thực hiện áp dụng Basel III hoặc một phần của Basel III, các NHTM Việt Nam mới đang trong giai đoạn triển khai Basel II. Chính vì vậy, các NHTM Việt Nam cần một bước tiến dài và nhanh hơn nữa để bắt kịp xu hướng, nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh với ngân hàng khối ngoại đang chiếm lĩnh thị phần ngày càng gia tăng tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, thanh khoản của toàn ngành ngân hàng có chiều hướng đi xuống tại thời điểm cuối năm 2021. Tỷ lệ thanh toán của tài sản giảm từ 22,83% xuống chỉ còn 12,12%, chủ yếu là do lượng tài sản thanh khoản của các ngân hàng đã giảm khoảng 35% so với thời điểm cuối năm 2020. Tổng tiền gửi năm 2021 đã tăng hơn 22% so với năm 2020, trong khi tổng dư nợ cho vay đạt gần 24%, do đó, chỉ số về dư nợ và tiền gửi gần như tương đương vào cuối năm 2020. Trong khi đó, dư nợ trung và dài hạn chỉ tăng ở mức gần 8,3%, một phần do các NHTM siết chặt hơn các chính sách về cho vay cũng như nhu cầu vay dài hạn để đầu tư cho xây dựng và mở rộng sản xuất đã suy giảm khá nhiều sau thời gian giãn cách kéo dài bởi ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, xét trên tổng thể toàn ngành ngân hàng, các chỉ số về thanh khoản vẫn đang ở mức cho phép và không tiềm tàng quá nhiều nguy cơ rủi ro.

Thị phần và chất lượng tín dụng

Trong 5 năm trở lại đây, thị phần tín dụng của hệ thống NHTM Việt Nam có sự phân chia rõ rệt, trong đó thị phần cho vay của khối NHTM nhà nước vẫn chiếm chủ yếu là 51,8%, nhóm NHTM cổ phần là 41,3% và NHTM nước ngoài là 6,9%. Trong giai đoạn từ năm 2016-2020, tỷ lệ nợ xấu (NPL) và tỷ lệ nợ nhóm 2 có xu hướng giảm. Việc tích cực giảm tỷ lệ nợ xấu hàng năm cho thấy, chất lượng tài sản của ngân hàng có sự cải thiện qua từng năm. Tuy nhiên, từ năm 2020 đến nay, dưới áp lực của nền kinh tế cũng như diễn biến dịch bệnh phức tạp, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng trở lại (từ 1,4% năm 2020 tăng lên 1,62% năm 2021), nhưng các tỷ lệ vẫn được giữ ở trong ngưỡng an toàn. Tỉ lệ bao phủ nợ xấu có sự tăng trưởng mạnh qua các năm (Hình).

Hình: Tỷ lệ nợ xấu và nợ bao phủ của hệ thống NHTM Việt Nam


Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê của NHNN (2022)

Theo số liệu của IMF (2022), hiện nay tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ nợ bao phủ của các NHTM Việt Nam vẫn cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực (Bảng 3).

Bảng 3. So sánh tỷ lệ nợ xấu và nợ bao phủ của Việt Nam

với một số quốc gia trong khu vực

Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu và nợ bao phủ của Việt Nam vẫn cao hơn tương đối so với Singapore và Indonesia, nhưng thấp hơn một số quốc gia như Thái Lan hay Philippines. Điều này có được là do những nỗ lực của cơ quan quản lý nhà nước trong vấn đề xử lý nợ xấu của nền kinh tế. Trong thời gian qua, tại Việt Nam, mặc dù VAMC đã đồng hành cùng các tổ chức tín dụng và các công ty Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản NHTM (Asset Management Company – AMC) khác, đưa tỷ lệ nợ xấu toàn ngành Ngân hàng về dưới 3%, tuy nhiên đây vẫn chỉ là biện pháp làm sạch bảng cân đối kế toán của hệ thống ngân hàng, trong khi con số nợ chưa xử lý ước tính lên đến 10,1% tổng dư nợ hệ thống ngân hàng. Trên thực tế, thị trường mua bán nợ Việt Nam còn chưa hoàn thiện, các công cụ xử lý nợ vẫn còn thô sơ và quá trình xử lý các khoản nợ tồn đọng trong nhiều năm qua còn gặp nhiều khó khăn.

Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời

Tỷ lệ NIM toàn ngành duy trì quanh mức 3%-3,3% trong giai đoạn 2016-2020. Trong 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng của dại dịch Covid-19, nhưng tỷ lệ NIM trung bình của hệ thống NHTM vẫn duy trì ở mức 3,34%, chỉ giảm nhẹ so với năm 2019 (3,37%). Năm 2020, trong 27 ngân hàng, có 12 ngân hàng có tỷ lệ NIM đạt trên trung bình toàn ngành (3,3%). Tỷ lệ này tương đối cao so với một số NHTM trong khu vực như Trung Quốc (2,1%), Malaysia (1,8%) và Singapore (1,6%) nhưng lại thấp hơn một số quốc gia như Indonesia (5,2%) hay Philippines (4,2%).

Bên cạnh đó, khả năng sinh lời của các ngân hàng còn được thể hiện qua một số chỉ số khác bao gồm: tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA). Trong năm 2021, theo báo cáo của NHNN, chỉ tiêu ROA và ROE của hệ thống NHTM Việt Nam đạt trung bình lần lượt là 1,09% và 12,61%. Trong đó, các NHTM nhà nước có tỷ lệ ROA và ROE lần lượt là 0,85% và 14,81%, các NHTM cổ phần là 1,36% và 14,42%, cuối cùng khối các ngân hàng nước ngoài là 0,85% và 5,94%. Theo thông lệ quốc tế, chỉ số ROA > 0,5% được xem là chấp nhận được, tuy nhiên ROA > 1% sẽ là mức lý tưởng hơn (bình quân 1,1% ở các nước báo cáo FSIs), trong khi chỉ số ROE có thể dao động ở mức 10%-20% là phù hợp (bình quân 10,8% ở các nước báo cáo FSIs, trong đó 14,6% ở nhóm G20). Nhìn chung, các chỉ tiêu này của hệ thống NHTM Việt Nam đều nằm trong tiêu chuẩn chung, song nếu xem xét chi tiết có thể thấy chỉ tiêu ROA của nhóm các NHTM nhà nước thấp hơn so với các NHTM cổ phần và hiện đang tương đương với nhóm ngân hàng nước ngoài. Điều đó cho thấy, mặc dù tổng tài sản của nhóm NHTM nhà nước là cao nhất, song hiệu quả khai thác tài sản của nhóm này thấp hơn các NHTM cổ phần và ngân hàng nước ngoài.

Trình độ công nghệ và nguồn nhân lực ngân hàng

Trong thời gian gần đây, các NHTM Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực trong quá trình thực hiện chiến lược ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số. Tuy quá trình này ở Việt Nam chỉ ở giai đoạn đầu, song về cơ bản hệ thống NHTM đã có những nỗ lực và hành động cụ thể nhằm từng bước đạt được các cấp độ chuyển đổi số. Số liệu thống kê của NHNN (2022), hiện nay có đến 95% tổ chức tín dụng đã, đang hoặc dự tính sẽ xây dựng chiến lược chuyển đổi số; có 39% tổ chức tín dụng phê duyệt chiến lược chuyển đổi số riêng biệt hoặc tích hợp trong chiến lược phát triển công nghệ thông tin; 42% các tổ chức tín dụng đang hoàn thiện chiến lược chuyển đổi số [1]. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số của hệ thống NHTM Việt Nam gặp không ít thách thức từ hệ thống chính sách; hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ; nguồn lực đầu tư; khả năng quản trị rủi ro trong ứng dụng ngân hàng số… Nếu các thách thức này không được tháo gỡ một cách kịp thời sẽ trở thành rào cản trong việc gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường của khối NHTM nội địa.

Đối với nguồn nhân lực, trong thời gian qua, các NHTM Việt Nam đã sử dụng nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua nâng cao chất lượng tuyển dụng đầu vào, áp dụng chính sách ưu đã thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao hay chú trọng công tác đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên hiện có. Nhờ vậy mà chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập và sự chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng kỹ năng về công nghệ và khả năng tiếp cận thị trường quốc tế còn thiếu. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao còn ít so với nhu cầu ngày càng cao của ngành, đặc biệt với đội ngũ chuyên gia làm công tác an ninh thông tin.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Để nâng cao năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định hệ thống ngân hàng cần tập trung thực thi một số nhóm giải pháp sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục xử lý nợ xấu của các NHTM. Nợ xấu không chỉ gây ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh cũng như mức độ ổn định của hệ thống NHTM Việt Nam, mà còn ảnh hưởng đến các chủ thể trong nền kinh tế. Do đó, giải quyết nợ xấu không chỉ là việc làm riêng của NHNN và hệ thống NHTM, mà cần có sự tham gia của toàn bộ các cơ quan quản lý nhà nước đồng hành cùng hệ thống doanh nghiệp nói chung. Để xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam, cần có các giải pháp đồng bộ từ nhiều bên liên quan như: (i) Bản thân mỗi NHTM cần chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu trong điều kiện cho phép và phù hợp với tình hình thực tế của chính ngân hàng đó, có thể chấp nhận giảm lợi nhuận; (ii) Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng trong nước hoặc ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính lớn, quản trị doanh nghiệp tốt mua lại những ngân hàng yếu kém trên cơ sở có sự hỗ trợ và kiểm soát từ phía NHNN; (iii) Giảm hoặc miễn các loại thuế (thuế GTGT, thuế Thu nhập doanh nghiệp…), các thủ tục không cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ hoạt động hiệu quả hơn.

Thứ hai, gia tăng vốn tự có của các NHTM Việt Nam. Đảm bảo an toàn vốn tự có là một trong ba trụ cột có vai trò quan trọng trong đảm bảo sự an toàn và hoạt động lành mạnh của hệ thống NHTM. Chính vì lẽ đó, việc tái cấu trúc vốn tự có là một cấu phần quan trọng của quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam. Việc gia tăng vốn tự có theo đó trở thành một vấn đề cần triển khai trong thời gian tới tại các NHTM Việt Nam thông qua thực thi các giải pháp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước và hệ thống ngân hàng, gồm: (i) Cho phép các NHTM được chủ động cân đối và quyết định việc sử dụng nguồn cổ tức các năm để tăng vốn cho năm tiếp theo; (ii) Tạo hành lang pháp lý cho các NHTM triển khai phương án phát hành cổ phiếu ra công chúng; (iii) NHTM tăng cường năng lực quản trị rủi ro nhằm giảm chi phí dự phòng, từ đó giúp ngân hàng bảo toàn quy mô vốn tự có; (iv) Hệ thống NHTM cần nỗ lực trong việc thu hút nhà đầu tư tài chính trong và ngoài nước nhằm tận dụng khả năng mở rộng quy mô vốn, tiếp cận năng lực quản trị và công nghệ hiện đại trong quản lý hoạt động ngân hàng.

Thứ ba, xây dựng chiến lược cạnh tranh hiệu quả. Muốn tạo ra chiến lược cạnh tranh hiệu quả, ngân hàng cần tận dụng được lợi thế về nguồn lực mình đang có nhằm tiết kiệm chi phí, tạo ra sản phẩm dịch vụ đảm bảo chất lượng và sự phù hợp về giá so với các đối thủ cạnh tranh. Hội nhập sẽ dẫn đến sự tham gia mạnh mẽ của nhiều ngân hàng nước ngoài nhưng nếu các NHTM trong nước biết cách hợp tác với các đối tác tiềm năng này sẽ có cơ hội tận dụng khai thác các thế mạnh của họ về công nghệ, trình độ quản trị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ. Đồng thời, sự phát triển của công nghệ ngân hàng còn là chìa khóa giúp các ngân hàng không những tạo ra sản phẩm dịch vụ tiên tiến, mà còn giảm bớt chi phí hoạt động, gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và hướng ngân hàng tiến tới sự phát triển bền vững.

Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện các giải pháp ứng phó kịp thời với những biến động của nền kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước. Sự ứng phó trước những cú sốc từ nền kinh tế vĩ mô không chỉ đòi hỏi bản thân các NHTM Việt Nam phải tự nâng cao năng lực quản trị điều hành, duy trì một tỷ lệ vốn tự có hợp lý để chống đỡ rủi ro mà cần có sự tham gia quản lý điều tiết chính sách từ phía các cơ quan quản lý nhà nước nhằm bình ổn thị trường tiền tệ, kiểm soát các biến số kinh tế vĩ mô… tạo môi trường kinh doanh ổn định cho các NHTM.

Thứ năm, nâng cao năng lực quản trị và phát triển nguồn nhân lực. Các NHTM Việt Nam cần dần tiến tới xây dựng năng lực quản trị theo chuẩn mực quốc tế, hướng tới sự tinh gọn và hiệu quả. Trước hết, cần hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy từ Hội sở đến các chi nhánh, tập trung phát triển kênh phân phối điện tử, giảm thiểu chi nhánh hữu hình. Bên cạnh đó, cần tập trung tới yếu tố con người, bởi trong sự cạnh tranh có thể bắt chước công nghệ, sản phẩm dịch vụ, nhưng yếu tố con người khó có thể bắt chước. Do đó, các NHTM cần xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực đủ về lượng, nhưng đảm bảo về chất. Có chế độ đãi ngộ và tạo môi trường làm việc tốt nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng các yêu cầu trong quá trình hội nhập và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng hiện có tại ngân hàng./.

TS. Nguyễn Thị Thu Hà – Học viện Hành chính Quốc gia

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 22, tháng 8/2023)

Nguồn: https://kinhtevadubao.vn/nang-cao-nang-luc-canh-tranh-va-muc-do-on-dinh-cua-he-thong-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-trong-boi-canh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-28357.html

SHN TỔ CHỨC CHƯƠNG TRÌNH TÔN VINH PHỤ NỮ VIỆT 8/3/2024

Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 – ngày tôn vinh và thể hiện sự yêu thương, trân trọng đến phái đẹp. Với những đóng góp to lớn trong quá khứ, hiện tại và tương lai, phụ nữ luôn là một phần không thể thiếu và mang đến những cống hiến to lớn cho xã hội.

Ban Tổng Giám đốc Công ty SHN tặng quà cho nữ CBNV Công ty

Một số hình ảnh của hoạt động với các Đơn vị thành viên nhân ngày 8/3:

Du thuyền du lịch Sông Hồng – Hoạt động thể hiện sự đoàn kết của các nhân viên Công ty SHN cùng các nhân viên Đơn vị thành viên
Giao lưu Phụ nữ SHN và các Đơn vị thành viên

Sáng ngày 8/3/2024, nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ, Ban Tổng Giám đốc Công Ty Cổ Phần Đầu Tư Tổng Hợp Hà Nội và các Đơn vị thành viên đã tặng quà, tổ chức gặp mặt, chúc mừng toàn thể nữ nhân viên Công ty. Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, SHN xin gửi lời chúc mừng và tôn vinh đến “một nửa thế giới”. Xin chúc các nữ nhân viên của SHN nói riêng và “một nửa thế giới” nói chung luôn xinh tươi, hạnh phúc, sức khỏe dồi dào, tiếp tục cống hiến và khẳng định mình trong công việc và cuộc sống.

BỘ PHẬN TRUYỀN THÔNG NỘI BỘ

Luật Đất đai 2024: Phân cấp triệt để, bảo đảm quyền lợi của người dân và doanh nghiệp

Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai thi hành Luật Đất đai 2024 – Ảnh: VGP/T.C

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh cho biết: “Luật Đất đai (sửa đổi) được thông qua với nhiều nội dung mới mang tính đột phá, quan trọng góp phần vào mục tiêu hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất”.

Trong đó, nổi bật là các nội dung: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; tài chính đất đai, giá đất; đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận chuyển sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về đất đai; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, sử dụng đất đai…

Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cũng thông tin, ngày 5/3/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 222/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Đất đai trong đó giao trách nhiệm cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành có liên quan và các địa phương trong việc tổ chức triển khai thi hành Luật Đất đai.

Bộ trưởng tin tưởng rằng với sự vào cuộc khẩn trương, quyết liệt của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương, Luật Đất đai sẽ sớm đi vào cuộc sống, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế sâu rộng, từng bước hiện thực hóa mục tiêu cuộc cách mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đề ra; kịp thời đáp ứng mong mỏi và nguyện vọng của Nhân dân.

Thông tin về Luật Đất đai 2024, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Minh Ngân cho biết, theo tinh thần của Luật Đất đai 2024, nhiệm vụ chủ yếu của Bộ Tài nguyên và Môi trường là tham mưu Chính phủ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia, còn tất cả các nội dung quản lý nhà nước khác, Luật đã giao, phân cấp về các địa phương.

Bộ sẽ có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, thanh, kiểm tra, hướng dẫn. Do đó, các địa phương cần nghiên cứu kỹ, đóng góp ý kiến cho Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2024 để Dự thảo đảm bảo chất lượng, tính hiệu lực, hiệu quả trong thi hành.

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài có đầy đủ các quyền liên quan đến đất đai

Cụ thể những điểm mới nổi bật của Luật Đất đai 2024, Thứ trưởng Lê Minh Ngân cho biết, Luật Đất đai 2024 có rất nhiều thay đổi mới, đột phá so với Luật Đất đai 2013.

Đáng chú ý, Luật Đất đai 2024 đã hoàn thiện quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo hướng đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam thì có đầy đủ các quyền liên quan đến đất đai như công dân Việt Nam ở trong nước (cá nhân trong nước). Quy định nhóm người sử dụng đất gồm thành viên hộ gia đình thì có quyền và nghĩa vụ như quyền và nghĩa vụ của cá nhân sử dụng đất.

Luật cũng bổ sung quyền lựa chọn hình thức trả tiền cho thuê đất hằng năm hoặc trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; quy định cụ thể điều kiện thực hiện quyền của tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hằng năm. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất mà có nhu cầu sử dụng một phần hoặc toàn bộ diện tích được giao để sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ thì được chuyển sang thuê đất trả tiền hằng năm.

Người sử dụng đất mà được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì có quyền và nghĩa vụ như trường hợp không được miễn hoặc không được giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; trường hợp chuyển nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì phải nộp cho Nhà nước một khoản tiền tương ứng với số tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã được miễn, giảm.

Luật đã bổ sung quy định cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa trong hạn mức giao đất, trường hợp quá hạn mức thì phải thành lập tổ chức kinh tế, phải có phương án sử dụng đất trồng lúa và phải được Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt; tổ chức kinh tế được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp phải có phương án sử dụng đất nông nghiệp được Ủy ban nhân dân cấp huyện chấp thuận.

Phân cấp cho UBND cấp huyện quyết định thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh

Thứ trưởng Lê Minh Ngân cho biết, những điều trong Chương VI quy định về Thu hồi đất, trưng dụng đất là những nội dung Ban soạn thảo dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu xây dựng, tham khảo quy định từ các quốc gia khác trên thế giới.

Theo đó, Luật Đất đai 2024 đã quy định cụ thể các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng để thực hiện các dự án xây dựng công trình công cộng; xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, công trình sự nghiệp; các trường hợp khác, bao gồm nhiều nhóm tiêu chí như: nhà ở, khu sản xuất, phát triển quỹ đất, khoáng sản, công trình ngầm và các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để đấu giá, đấu thầu nhằm tăng thu ngân sách…

Quy định cụ thể căn cứ, điều kiện thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; bổ sung một số trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đat, do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, thu hồi đất liên quan đến quốc phòng, an ninh…

Đặc biệt, Luật Đất đai 2024 đã phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng mà không phân biệt theo đối tượng sử dụng đất như Luật Đất đai năm 2013.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh: “Luật Đất đai (sửa đổi) được thông qua với nhiều nội dung mới mang tính đột phá, quan trọng” – Ảnh: VGP/T.C

Đa dạng các hình thức bồi thường đối với đất bị thu hồi

Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất là nội dung rất được quan tâm. Luật Đất đai 2024 cũng có nhiều điểm mới về nội dung này.

Luật đã sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bồi thường theo hướng đa dạng các hình thức bồi thường: được bồi thường bằng đất có cùng mục đích với đất bị thu hồi hoặc bằng tiền, bằng đất khác hoặc bằng nhà ở.

Cụ thể hóa nguyên tắc “có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ” thông qua quy định tiêu chí khu tái định cư về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, địa điểm thực hiện tái định cư. Khu tái định cư có thể bố trí cho một hoặc nhiều dự án.

Mở rộng thành phần Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định với sự tham gia của đại diện Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, đại diện của người sử dụng đất có đất bị thu hồi…để đảm bảo sự khách quan, minh bạch, sự tham gia của các bên liên quan.

Luật cũng quan tâm đến đối tượng chính sách xã hội, đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp; các bước thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất đảm bảo nguyên tắc có sự tham gia của người dân ở các giai đoạn, đảm bảo nguyên tắc người có đất bị thu hồi được bồi thường, tái định cư trước khi thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ đối với chủ sở hữu tài sản mà không đồng thời là chủ sử dụng đất, người bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất.

Nguồn: https://baochinhphu.vn/luat-dat-dai-2024-phan-cap-triet-de-bao-dam-quyen-loi-cua-nguoi-dan-va-doanh-nghiep-10224030618061585.htm